I. Điều trị
Đến nay AIDS vẫn chưa có thuốc đặc hiệu, hiện nay hướng điều trị chính của AIDS là tiêu diệt virus HIV và tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể.
1、 Điều trị chung
)1) Cách ly nguồn lây truyền, để ngăn chặn sự gia tăng liên tục của AIDS. Ngoài ra, bảo vệ nhân viên y tế, làm tốt công tác khử trùng và cách ly, rất quan trọng.
)2) Đối với bệnh nhân AIDS ở giai đoạn hoạt động có các nhiễm trùng và ung thư ác tính, cần nghỉ ngơi đầy đủ, ăn uống nhiều đường và protein, bổ sung đủ calo.
)3) Điều trị triệu chứng, khi sốt cao có thể dùng thuốc hạ sốt và giảm sốt vật lý, bệnh nhân thường vì sợ AIDS, lo lắng căng thẳng, bi quan�, bệnh nhân bị bệnh lý chiếm chỗ não có thể gây rối loạn tâm thần, nên sử dụng thuốc an thần thích hợp.
2、 điều trị kháng HIV
Việc điều trị HIV là biện pháp quan trọng trong việc điều trị AIDS, nhưng đến nay vẫn chưa có thuốc đặc hiệu.
)1) Suramin: là chất ức chế men sao chép ngược, đồng thời có thể bảo vệ CD4cản trở tác dụng độc của HIV đối với tế bào. Nhưng nên dùng sớm, độc tính của thuốc này lớn, thường gây tổn thương thận, nôn mửa, mệt mỏi, thậm chí đột tử và các tác dụng phụ khác.
)2) Zidovudine (Zidovudine, AZT): là chất ức chế men sao chép ngược thế hệ thứ hai, có thể can thiệp vào HIV, ngăn chặn sự tổng hợp protein núm của virus. Thuốc này qua được máu,-bức tường não tủy, hiệu quả điều trị tốt đối với bệnh lý não. Tác dụng phụ nhỏ.
)3) Ribavirin (Ribavirin): có chức năng kháng virus RNA, cũng có tác dụng ức chế HIV, độc tính thấp, nhưng không thể qua được màng não tủy,-bức tường não tủy.
)4) Các loại khác: như HPA-23、 axit metaphosphat tribasê (Forcarnet), inosinepranobex (Imunovir)�,� có tác dụng ức chế nhất định đối với HIV và điều chỉnh hệ thống miễn dịch.
Các loại thuốc kháng HIV này đều có một số hạn chế và nhược điểm nhất định, vì vậy vẫn là một vấn đề điều trị chưa được giải quyết.
3) Điều trị tăng cường miễn dịch
Nhiễm trùng HIV chủ yếu gây ra ức chế miễn dịch, vì vậy tăng cường và phục hồi chức năng miễn dịch của cơ thể là một khâu quan trọng trong điều trị AIDS, nhưng các phương pháp hiệu quả đối với AIDS không nhiều.
)1) Cấy ghép tủy xương: Chỉ có thể cải thiện tạm thời tình trạng miễn dịch, kéo dài cuộc sống trong ngắn hạn, không thể cải thiện hoàn toàn tình trạng ức chế miễn dịch.
)2) Interferon X tái tổ hợp người-A(rIFNX-A): Có thể ức chế sự nhân lên của HIV, kết hợp với thuốc kháng virus hoặc có thể có giá trị trong điều trị và phòng ngừa AIDS ở giai đoạn sớm.
)3) Interleukin (IL2) Nghiên cứu trong ống nghiệm đã chứng minh có thể làm tăng phản ứng tăng sinh của lymphocyte của bệnh nhân AIDS đối với PHA, ConA và phản ứng lymphocyte trộn, sử dụng interleukin (IL-2) Khi đó phải kết hợp với thuốc kháng HIV.
)4) GRANULOCELL MACROPHAGE COLONY STIMULATING FACTOR (GMCSF) có tác dụng thúc đẩy miễn dịch và chống virus.
)5) Khác: Albumin huyết thanh của con người giúp tăng cường sức đề kháng của bệnh nhân, polysaccharide shiitake (Lentinan) giúp tăng cường sự tạo thành interferon, nhưng đều không thể thay đổi trạng thái miễn dịch của cơ thể.
4) Điều trị biến chứng
)1) Điều trị vi khuẩn: Bệnh nhân bị nhiễm trùng do vi khuẩn gây bệnh và nhiễm trùng conditionally pathogenic nên chọn thuốc kháng sinh nhạy cảm để kiểm soát tốt các ổ nhiễm trùng, ngăn chặn sự lan rộng thành nhiễm trùng toàn thân.
)2) Điều trị nấm: Dựa trên loại nấm nhiễm trùng và vị trí, chọn thuốc chống nấm tương ứng.
)3) Điều trị ký sinh trùng:
) Viêm phổi do囊 giang: Có thể điều trị kết hợp với pyrimethamine và sulfadiazine, hoặc pentamidine (Pentamidine) hoặc sulfamethoxazole (SMZ) kết hợp với methenamine (TMP). Thường chỉ có thể kiểm soát tạm thời tình trạng bệnh, dễ tái phát sau khi ngừng thuốc. Gần đây, việc sử dụng Eflornithine, thuốc điều trị sán, đã đạt được thành công.
) Sán lái: Điều trị kết hợp với pyrimethamine và sulfadiazine, cả hai đều có thể qua máu-) BARRIER não tủy hành động trên não, nhưng thuốc chỉ có thể giết chết thể滋养, không thể tiêu diệt囊.
)4) Điều trị virus:
) Herpes simplex: Sử dụng acyclovir, ganciclovir, morphine guanidine, interferon và các loại khác đều được.
) Đau nứt: Ngoài các biện pháp điều trị virus kể trên, thêm vitamin B.1) Điều trị giảm đau.
)5) Điều trị ung thư: AIDS thường gặp các biến chứng ung thư Kaposi và u lympho không lành tính và u lympho não. Thuốc thường dùng là podophyllotoxin, vincristin, vincamin và các loại thuốc chống ung thư này, chỉ có hiệu quả trong thời gian ngắn, dễ tái phát và thường gặp các nhiễm trùng conditionally pathogenic trong quá trình điều trị.
5、治療肾脏并發症
Bệnh nhân hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) thường kèm theo các biến chứng thận.
HiVAN hiện thiếu các biện pháp điều trị hiệu quả, FSGS gây ra hội chứng bệnh thận mạn tính hoặc các loại bệnh thận khác, đều không có hiệu quả với corticosteroid. Có người đề xuất thử sử dụng Azithromycin điều trị HiVAN, có thể ngăn chặn hoặc giảm sự tiến triển của FSGS ở bệnh nhân HiVAN, nhưng nên sử dụng trước khi chức năng thận của bệnh nhân chỉ có một lượng nhỏ protein niệu và chưa giảm rõ ràng.
6Chữa trị suy thận cấp tính
Tỷ lệ mắc suy thận cấp tính ở bệnh nhân tổn thương thận AIDS khoảng55%. Suy thận cấp tính do tổn thương cấp tính của tế bào thận do thiếu máu thận (thường do mất dịch体 hoặc máu, sốc nhiễm trùng gây sốc) hoặc độc tính thận (thường do độc tính của thuốc như gentamicin, amphotericin B, pentamidine v.v.).
Ngoài ra, lượng protein niệu lớn và thiếu máu protein nghiêm trọng gây phù thận, suy thận do hội chứng thận hư và hội chứng thiếu máu tiểu cầu huyết thanh do血栓 (TTP), và u đa phát cũng có thể gây suy thận cấp tính, bệnh thận hiện có cũng là yếu tố nguy cơ gây suy thận cấp tính, trong đó nguyên nhân phổ biến nhất là mất nước.
Hầu hết các bệnh nhân suy thận cấp tính có thể được cải thiện bằng cách điều chỉnh mất nước, điều trị sốc, điều chỉnh liều dùng, và cần thiết thì sử dụng liệu pháp lọc máu. Liệu pháp lọc máu có thể làm ngược lại chức năng thận suy thận cấp tính, từ đó có thể kéo dài cuộc sống của bệnh nhân. Nhưng đối với lọc máu thận mạn tính, chỉ có thể kéo dài sự sống thêm vài tháng, không thể giúp bệnh nhân phục hồi. Nhìn chung, lọc máu đối với suy thận HIVAN không hiệu quả. Về vấn đề cấy ghép thận HIVAN, do số lượng bệnh nhân ít, vẫn chưa thể xác định được hiệu quả của nó, có một số báo cáo thành công. Nhưng tỷ lệ nhiễm trùng的条件性行很高, ảnh hưởng đến tiên lượng.
II. Tiên lượng
T目前为止,do AIDS chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu, tỷ lệ tử vong rất cao. Có người đã so sánh tiên lượng của AIDS có và không có bệnh thận, kết quả rõ ràng khác nhau. Trong một nhóm13Ví dụ mắc bệnh thận đồng thời với AIDS,4Ví dụ cần lọc máu11Ví dụ chết trước khi kết thúc nghiên cứu này; trong khi đó, nhóm còn lại19Ví dụ không có biến chứng thận, không có trường hợp nào cần lọc máu, trong đó5Ví dụ chết trước khi kết thúc nghiên cứu này. Từ đó có thể thấy kết quả của hai nhóm có sự khác biệt rõ ràng. Nhìn chung, bệnh nhân mắc HIVAN có tiến triển bệnh nhanh chóng, sau8~16Tuần xảy ra suy thận cấp tính nghiêm trọng, thường xảy ra1Chết trong năm. Ngoài ra, tỷ lệ nhiễm nấm ở HIVAN cũng cao, tiên lượng xấu.