Phương pháp điều trị truyền thống của y học phương Tây đối với nhiễm trùng đường mật:
1. Viêm túi mật cấp tính
Phương pháp điều trị cuối cùng của viêm túi mật có sỏi là điều trị bằng phẫu thuật. Chọn thời điểm và phương pháp phẫu thuật nên dựa trên tình hình cụ thể của bệnh nhân.
1phương pháp điều trị không phẫu thuật: bao gồm kiêng ăn, truyền dịch, điều chỉnh nước và điện giải, và mất cân bằng acid-base, điều trị hỗ trợ toàn thân; chọn sử dụng kháng sinh phổ rộng có tác dụng đối với cả vi khuẩn Gram âm, Gram dương và vi khuẩn kỵ khí hoặc phối hợp sử dụng kháng sinh. Sử dụng vitamin K, giảm co thắt và giảm đau. Do tỷ lệ mắc bệnh cao ở người cao tuổi, cần phát hiện và xử lý kịp thời các bệnh lý đồng thời như tim, phổi, thận, để duy trì chức năng của các cơ quan quan trọng. Phương pháp điều trị không phẫu thuật có thể được sử dụng làm phương pháp điều trị và cũng có thể được sử dụng làm chuẩn bị trước phẫu thuật. Trong thời gian điều trị không phẫu thuật, cần theo dõi chặt chẽ sự thay đổi toàn thân và cục bộ của bệnh nhân để có thể điều chỉnh phương án điều trị kịp thời. Hầu hết các bệnh nhân sau khi điều trị bằng phương pháp không phẫu thuật, tình trạng bệnh có thể được kiểm soát, chờ sau đó thực hiện phẫu thuật theo lịch.
2phẫu thuật;
1phút; ① Khi bệnh phát triển;4872giờ; ② Những trường hợp không có hiệu quả từ điều trị không phẫu thuật và tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng; ③ Những trường hợp có biến chứng như thủng túi mật, viêm màng bụng bội nhiễm, viêm túi mật cấp tính, viêm tuyến tụy cấp tính và viêm tụy hoại tử... Các bệnh nhân khác, đặc biệt là những bệnh nhân nguy cơ cao yếu sức, nên cố gắng thực hiện phẫu thuật khi tình trạng bệnh của họ đạt mức tốt nhất.
2Chọn phương pháp phẫu thuật: Phương pháp phẫu thuật có cắt túi mật và tạo miệng túi mật. Nếu tình trạng toàn thân và tổn thương tại túi mật và các mô xung quanh của bệnh nhân cho phép, nên thực hiện phẫu thuật cắt túi mật để loại bỏ bệnh lý. Nhưng đối với những bệnh nhân nguy cơ cao, hoặc có viêm nhiễm, sưng phù, dính chặt, mối quan hệ giải phẫu không rõ ràng, đặc biệt là trong tình trạng cấp cứu, nên chọn phương pháp tạo miệng túi mật để减压 dẫn lưu.3Sau đó, khi tình trạng bệnh ổn định, mới tiến hành phẫu thuật cắt túi mật. Đối với những bệnh nhân cao tuổi, yếu sức, có bệnh lý ở nhiều cơ quan như tim, phổi, thận, sau khi lấy sỏi và tạo miệng túi mật, có học giả đã đặt ra nghi vấn về việc có cần phẫu thuật cắt túi mật tiếp theo hay không.
Viêm túi mật không có sỏi cấp tính, bệnh này sau khi được chẩn đoán, nên điều trị bằng phẫu thuật sớm, dựa trên tình hình của bệnh nhân có thể chọn cắt túi mật hoặc tạo miệng túi mật. Đối với những bệnh nhân tình trạng nghiêm trọng không thể chịu đựng được điều trị bằng phẫu thuật, có thể sử dụng phương pháp tạo ống dẫn niệu qua da vào túi mật để dẫn lưu. Đối với những bệnh nhân tình trạng nhẹ, có thể thực hiện điều trị không phẫu thuật tích cực dưới sự quan sát chặt chẽ, nếu tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng, cần thay đổi ngay sang điều trị bằng phẫu thuật.
2. Viêm túi mật mạn tính
Đối với những trường hợp có sỏi mật, đều nên thực hiện phẫu thuật cắt túi mật. Đối với những trường hợp không có sỏi, triệu chứng nhẹ, kiểm tra hình ảnh cho thấy túi mật không có hiện tượng teo nhỏ và có chức năng nhất định, cần thận trọng trong việc điều trị bằng phẫu thuật, đặc biệt là đối với bệnh nhân nữ trẻ, có thể trước tiên sử dụng các phương pháp điều trị không phẫu thuật như tiêu diệt viêm và lợi mật, và điều chỉnh axit. Đối với những bệnh nhân cao tuổi, yếu sức không thể chịu đựng được phẫu thuật, có thể sử dụng phương pháp điều trị không phẫu thuật, bao gồm hạn chế ăn chất béo, uống thuốc tiêu viêm và lợi mật, và điều trị kết hợp y học Trung-Việt.
Ba, điều trị bệnh viêm đường mật cấp tính tắc nghẽn mủ
principle là phẫu thuật cấp cứu để giải quyết tắc nghẽn đường mật và dẫn lưu, giảm áp lực trong ống mật sớm và hiệu quả. Kinh nghiệm lâm sàng xác nhận, không ít bệnh nhân nguy kịch trong quá trình phẫu thuật, khi cắt giảm đường mật chung để thoát ra lượng dịch mật mủ lớn, với sự giảm áp lực trong ống mật, tình trạng bệnh của bệnh nhân cải thiện trong ngắn hạn, huyết áp và nhịp tim dần趋向 bình thường. Điều này cho thấy chỉ có giải quyết tắc nghẽn ống mật mới có thể kiểm soát nhiễm trùng đường mật, ngăn chặn sự tiến triển của bệnh tình.
1、Điều trị không phẫu thuật “cả là phương pháp điều trị, lại có thể là chuẩn bị trước phẫu thuật. Đ主要包括: ① Sử dụng đủ liều kháng sinh rộng phổ và hiệu quả. ② Đ điều chỉnh rối loạn nước và điện giải. ③ Khôi phục thể tích máu, cải thiện và đảm bảo sự cung cấp máu và oxy tốt cho các cơ quan và mô: bao gồm điều chỉnh sốc, sử dụng chất độc corticoid thận肾上腺, vitamin, cần thiết thì sử dụng thuốc hoạt tính mạch máu; cải thiện chức năng thở, điều chỉnh thiếu oxy máu để cải thiện và duy trì chức năng của các cơ quan chính, v.v. Thời gian điều trị không phẫu thuật thường nên kiểm soát6giờ. Đối với những bệnh nhân nhẹ hơn, sau khi điều trị tích cực ngắn hạn mà tình trạng bệnh cải thiện, có thể tiếp tục điều trị dưới sự theo dõi chặt chẽ. Nếu tình trạng bệnh nghiêm trọng hoặc tình trạng bệnh tiếp tục恶化 sau điều trị, cần phẫu thuật cấp cứu. Đối với những người vẫn trong tình trạng sốc, cũng nên tiến hành điều trị phẫu thuật trong khi điều trị sốc. ④ Điều trị triệu chứng: bao gồm hạ sốt, điều trị hỗ trợ, thở oxy, v.v.
2、Phương pháp điều trị phẫu thuật Mục đích chính là cứu sống bệnh nhân, phẫu thuật nên đơn giản và hiệu quả. Thường sử dụng là cắt giảm áp lực đường mật chung, dẫn lưu bằng ống T. Nhưng cần chú ý đường dẫn lưu ống mật trong gan phải thông suốt, vì có một số tắc nghẽn ống mật是多层面的. Nhiễm trùng đa phát ở gan là biến chứng phổ biến và nghiêm trọng của bệnh này, cần chú ý phát hiện và xử lý đồng thời. Việc tạo miệng túi mật thường khó đạt được dẫn lưu đường mật hiệu quả, không nên sử dụng thường xuyên.
3、Cách giảm áp lực và dẫn lưu ống mật bằng phương pháp không phẫu thuật thông thường có PTCD và kỹ thuật dẫn lưu ống mật qua nội soi (ENAD). Nếu điều trị bằng PTCD hoặc ENAD mà tình trạng bệnh không cải thiện, cần thay đổi phương pháp điều trị phẫu thuật kịp thời.