手外伤分为开放性损伤和闭合性损伤,其具体治疗方法如下所述。
一、急救措施
1、开放性损伤
(1)急救原则
必须及时予以处理,一般情况下,开放性损伤应争取在伤后6~8小时内使伤口闭合,这样才能在很大程度上减少术后感染的发生。
(2)急救方式
①在出现开放性手部外伤时,应及时就近送到医院进行治疗,并常规注射破伤风抗毒素。
②在送医的过程中,如果出现较严重的出血,可行局部按压,或者在上臂用皮带或皮筋进行环扎止血,但如果采用这一方法止血,一定要注意在每环扎1小时左右时,要松开皮带或皮筋10~15分钟,否则会导致整个肢体的坏死。
③如果损伤导致肢体的骨折,最好在搬运之前进行简单的固定,可就近取材,用木板、铁棍或较硬的书刊、杂志均可,这样可以避免在搬运的过程中骨折断端二次损伤周围的神经、血管、肌腱等软组织。
④Nếu xức đặt đã gây ra vị thương gập giữa chỉ và ngứng tay, tốt nhất nên bao gõi đầu chỉ hoặc ngứng tay bằng bao nhựa, đặt vào bạc đặn đặt nhắt và lưu kỳ, và đều đẳt vào bệnh viện, không được đặt lệt đặt đầu chỉ hoặc đặt đầu chỉ diễn dịch trực tiếp vào nước lệt.
2、Chấn thương đóng
Nguyên tắc cấp cứu: Trong các chấn thương đóng, cũng cần đến ngay bệnh viện, để bác sĩ đưa ra phán đoán toàn diện và chính xác về mức độ tổn thương, không để耽误 điều trị sớm. Nếu bệnh nhân cảm thấy sưng nề rõ ràng, xuất hiện hiện tượng da bàn tay trắng hoặc tím, ngón tay tê, mất cảm giác đập mạch gót, cần nhanh chóng đến bệnh viện, xử lý kịp thời.
二、Chữa bệnh
1、Đánh giá mức độ tổn thương sớm
Do cấu trúc của bàn tay rất tinh vi và phức tạp, vì vậy việc xác định chính xác mức độ tổn thương sau khi bị chấn thương rất quan trọng. Trong các chấn thương ở bàn tay, da thường là tổ chức bị ảnh hưởng đầu tiên,其次是 cơ, gân, thần kinh, động mạch và xương khớp.
(1)Phân biệt mức độ vết thương da:Vết thương da rất dễ thấy, nhưng dựa vào loại vết thương da khác nhau, kết quả dự đoán cũng khác nhau. Vết thương do vật sắc nhọn gây ra tương đối dễ xử lý. Vết thương do máy梳理 hoặc da bị bóc rộng lớn rất khó xử lý, vì vết thương do máy梳理 sẽ cắt da thành từng sợi, gần như không thể缝合 và khôi phục tốt. Vết thương da bị bóc rộng lớn thường khó đánh giá xem da bị bóc có còn lưu thông máu hay không, sau khi ghép lại có thể bị hoại tử. Vết thương da do vật sắc nhọn cũng không thể chủ quan, nếu bị cắt da thịt, do lưỡi có chứa dịch thịt và protein ngoại lai, vết thương rất dễ bị nhiễm trùng và không lành, tình trạng tương tự cũng có thể xảy ra ở vết thương do người hoặc động vật cắn.
(2)Phân biệt chấn thương thần kinh:Nếu đoạn xa vị trí tổn thương xuất hiện giảm cảm giác, mất cảm giác và (hoặc) rối loạn vận động, cần nghi ngờ cao rằng có tổn thương thần kinh, lúc này, việc đến bệnh viện thông thường để làm vết thương đã không đủ, nhất định phải đến khoa ngoại khoa tay để điều trị sớm tổn thương thần kinh để đạt được hiệu quả điều trị tốt nhất có thể.
(3)Phân biệt chấn thương động mạch:Trong các chấn thương mở, chảy máu là không tránh khỏi. Nhưng nếu xuất hiện hiện tượng chảy máu phun ra từ vết thương, có thể là tổn thương động mạch, lúc này cần thực hiện bóp止血 hoặc buộc băng止血 ở đoạn gần tâm thất, nếu không, bệnh nhân có thể nhanh chóng bị sốc do mất máu, thậm chí đe dọa đến tính mạng. Ngoài ra, nếu xuất hiện hiện tượng da ở đoạn xa vết thương trở nên trắng bệch, không có mạch, nhiệt độ da giảm rõ ràng, thường là dấu hiệu cho thấy tuần hoàn máu ở vị trí đó rất kém, không khớp mạch, không重建 tuần hoàn máu thì chi thể không thể được bảo toàn, lúc này, nên đưa bệnh nhân trực tiếp đến bệnh viện có khoa ngoại khoa tay chuyên khoa để điều trị, tránh để bị耽误 điều trị do phải chuyển viện nhiều lần.
(4)Phân biệt chấn thương cơ, gân:Nếu xuất hiện rối loạn hoạt động của một hoặc một số ngón tay mà không kèm theo giảm cảm giác, có thể là do tổn thương gân hoặc cơ, lúc này nên tìm bác sĩ chuyên khoa ngoại khoa tay để sửa chữa.
(5)Phân biệt chấn thương xương, khớp:Nếu xuất hiện biến dạng, hoạt động bất thường ở xương, khớp, hoặc sưng và đau rõ ràng ở vùng cục bộ, thường là dấu hiệu cảnh báo có khả năng bị chấn thương xương, khớp. Lúc này, nên chụp ảnh để xác định mức độ nghiêm trọng của chấn thương. Khi chụp ảnh ở bàn tay, cần chú ý không chỉ chụp ảnh toàn bàn tay ở vị trí chính và nghiêng mà còn cần chụp ảnh chính,侧面 và nghiêng của một ngón tay hoặc khớp cụ thể. Như vậy, mới không để xảy ra hiện tượng bỏ sót chẩn đoán.
2、Chọn gây mê
Hầu hết các bệnh viện đa khoa không chú ý nhiều đến chấn thương ở tay, thường chỉ thực hiện gây mê tại chỗ đơn giản trong phòng mổ cấp cứu để tiến hành phẫu thuật. Tuy nhiên, do hiệu quả giảm đau của gây mê tại chỗ không tốt và phạm vi gây mê nhỏ, điều này không có lợi cho việc làm sạch vết thương hoàn toàn và khám nghiệm toàn diện vết thương, rất dễ dẫn đến việc làm sạch vết thương không彻底 hoặc bỏ sót chẩn đoán và điều trị.
Nhìn chung, khuyến nghị sử dụng gây mê tủy sống để điều trị chấn thương ở tay, gây mê này có thể bao phủ gần như toàn bộ chi trên, cũng便于 sử dụng băng止血 khí áp, không chỉ có thể giảm máu chảy trong quá trình phẫu thuật mà còn làm sạch khu vực phẫu thuật, có lợi cho việc提高 hiệu quả phẫu thuật.
Tất nhiên, nếu chỉ là vết thương ở ngón tay, và không xem xét thực hiện các phẫu thuật chuyển vị da khác, cũng có thể thực hiện gây mê tại gốc ngón tay kết hợp với sử dụng băng止血 tại gốc ngón tay. Hiện nay, phương pháp gây mê phổ biến là tiêm gây mê vào bao hoạt dịch cơ gấp ngón tay, ưu điểm của phương pháp này là chỉ cần tiêm một mũi đã đạt được hiệu quả gây mê, bệnh nhân ít đau đớn hơn và hiệu quả gây mê chắc chắn.
Nếu có nhiều vết thương ở nhiều chi, hoặc có kế hoạch thực hiện phẫu thuật chuyển vị da hoặc mô ở các部位 khác, hoặc bệnh nhân là trẻ em, không thể hợp tác với gây mê, có thể xem xét thực hiện gây mê toàn thân.
3、Làm sạch vết thương cấp cứu
Việc làm sạch vết thương cấp cứu là rất quan trọng, chất lượng của việc làm sạch vết thương trực tiếp quyết định liệu vết thương sau phẫu thuật có thể lành trong một lần hay không, có nhiễm trùng hay không. Trong quá trình làm sạch vết thương, cần cố gắng loại bỏ hoàn toàn các mô hoại tử, mô chết và mô bị nhiễm trùng nghiêm trọng, sau đó rửa lại nhiều lần bằng nước生理, nước oxy già và iodophor, nếu cần thiết sau khi rửa cần làm sạch vết thương lần hai, cho đến khi vết thương sạch sẽ và tươi mới.
Trước đây, các giáo trình ngoại khoa thường nhấn mạnh việc làm sạch vết thương彻底, tức là loại bỏ tất cả các mô bị nhiễm trùng. Sau khi làm sạch vết thương彻底, mới tiến hành重建 một số mô quan trọng. Tuy nhiên, đối với nhiều mô quan trọng (như thần kinh, động mạch chính), sau khi loại bỏ có thể không đạt được hiệu quả重建 mong muốn. Cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật kháng sinh hiện đại, bác sĩ có thể tiến hành làm sạch vết thương hạn chế trong một số trường hợp, giữ lại một số mô quan trọng bị nhiễm trùng nhẹ hoặc chỉ loại bỏ lớp màng nhiễm trùng bên ngoài, thông qua việc nuôi cấy vi sinh vật và thử nghiệm độ nhạy với thuốc kháng sinh ở khu vực bị nhiễm trùng, sau đó hỗ trợ điều trị bằng kháng sinh tại chỗ hoặc toàn thân để cố gắng bảo toàn chức năng của chi bị thương.
Đối với các trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng, vết thương mở lâu ngày, cần xem xét khả năng nhiễm trùng bởi Bacillus cereus. Do đó, trước khi phẫu thuật cần kiểm tra mẫu dịch chảy ra từ vết thương để xem có sự hiện diện của Bacillus Gram dương lớn hoặc màng. Nếu nghi ngờ nhiễm trùng bởi Bacillus cereus, cần tiến hành phẫu thuật trong phòng mổ cách ly riêng, không nên đóng vết thương ngay lập tức (hoặc sau khi làm sạch vết thương và kiểm tra lại nhiều lần để đảm bảo không còn Bacillus Gram dương lớn hoặc bào tử, mới đóng vết thương), nếu có điều kiện sau phẫu thuật có thể hỗ trợ điều trị bằng oxy dưới áp lực cao.
4、Đánh giá tình trạng vết thương trong quá trình phẫu thuật
Trong quá trình phẫu thuật, sau khi làm sạch vết thương, bác sĩ phẫu thuật nên xác nhận thêm kết quả đánh giá tình trạng vết thương trước phẫu thuật, nếu phát hiện có thêm tổn thương, cần ghi chép chi tiết và cố gắng khôi phục trong một lần phẫu thuật.
5、phục hồi và重建
Nếu vết thương không bị nhiễm trùng nghiêm trọng, tất cả các vết thương ngoại khoa ở bàn tay đều ủng hộ việc phục hồi và重建 mô ban đầu, bất kể da, gân, hay xương, thần kinh, nếu có sự thiếu hụt, trừ một số trường hợp đặc biệt, đều nên thực hiện ghép mô, vì nếu cố gắng khép lại, rất có thể gây ra co rút hoặc ngắn lại mô,严重影响 chức năng và外观.
Tất nhiên, trong trường hợp nhiễm trùng vết thương nghiêm trọng, việc thực hiện tổ chức phục hồi ban đầu có một certain rủi ro, trong trường hợp này cũng có thể thực hiện trước tiên phẫu thuật làm sạch vết thương, chờ đến lần hai mới thực hiện phục hồi và重建 mô.
6、xử lý sau phẫu thuật
vết thương ở bàn tay thường2ngày tháo ống dẫn lưu, nếu vết thương là dẫn lưu bằng ống,则需要根据引流量的多少来决定拔管的时间,一般是在24giờ lượng dịch thu lại ít hơn15ml có thể tháo ống. Nếu vết thương ở bàn tay không bị nhiễm trùng, không cần thay thuốc thường xuyên5~7ngày thay thuốc vết thương một lần. Nếu vết thương chảy nhiều dịch, có thể1~2ngày thay thuốc một lần. Nếu bệnh nhân có lượng đường trong máu bình thường, vết thương không bị nhiễm trùng, có thể thay thuốc vết thương sau12~14ngày tháo chỉ. Đối với bệnh nhân tiểu đường, việc tháo chỉ có thể chậm lại.
Sau khi phẫu thuật ghép ngón tay (cánh tay) bị đứt, tổn thương mạch máu hoặc phẫu thuật ghép mô tự do, bệnh nhân nên giảm thiểu các yếu tố gây co mạch sau phẫu thuật để tránh thất bại phẫu thuật do hiện tượng nguy hiểm về mạch máu sau phẫu thuật. Trước hết, nên giảm thiểu kích thích đau, có thể sử dụng thuốc giảm đau, bơm giảm đau, sau đó tránh lạnh và khói thuốc. Tất nhiên, nếu có điều kiện sử dụng các loại thuốc giãn mạch và giảm co thắt sẽ tốt hơn, cũng có thể sử dụng đèn sưởi để chiếu vào chi bị thương.
Đối với bệnh nhân bị tổn thương mạch máu, gân, dây thần kinh, thường sẽ được cố định bằng bột石膏 sau khi phẫu thuật, loại bột石膏 này thường cần cố định3~4tuần, trong thời gian cố định bằng bột石膏, không được tự ý gỡ bỏ bột石膏, nếu không dễ dẫn đến sự đứt gãy lại của mạch máu, gân hoặc dây thần kinh bị缝合. Sau khi gỡ bỏ bột石膏, nên tập luyện chức năng dưới hướng dẫn của bác sĩ, đối với bệnh nhân có yêu cầu đặc biệt hoặc dị ứng với bột石膏, cũng có thể sử dụng các loại giá đỡ khác để cố định.
Đối với những bệnh nhân vẫn có một phần chức năng bị mất sau khi tập luyện chức năng, có thể thực hiện phẫu thuật lần đầu tiên4~6tháng xem xét phẫu thuật lần hai để giải phóng mô, sửa chữa hoặc phẫu thuật重建 chức năng.