Phân loại truyền thống dựa trên lực gây tổn thương để phân loại, như loại gãy gập,伸展, xoay và tổn thương lực kéo dài theo chiều dài... Phương pháp phân loại truyền thống này không thực sự tốt, vì một lực có thể gây ra nhiều tổn thương cột sống, và phương pháp phân loại cũ không giúp trong việc chọn phương pháp điều trị. Armstrong của Canada tổng hợp kinh nghiệm của mình và phân loại của một số tác giả phương Tây, đề xuất phân loại theo hình thái tổn thương, chia cột sống gãy thành bảy loại. Mỗi loại có đặc điểm tổn thương đặc trưng và liên quan đến phương pháp điều trị cụ thể. Phương pháp phân loại mới giúp điều trị cột sống gãy trở nên khoa học hơn. Dưới đây là đặc điểm của từng loại:
Một, gãy xương nén
Gãy xương nén do lực gập hoặc gập bên gây ra, phổ biến nhất là gãy góc trước của đốt sống do chiều cao trước của đốt sống giảm. Ngoài ra còn có gãy nén bên, tức là chiều cao hai bên của đốt sống khác nhau. Các thay đổi góc trước này thường kèm theo tổn thương mặt phẳng cuối của đốt sống và tổn thương đĩa đệm, đĩa đệm có thể bị ép vào trong đốt sống. Nhưng chiều cao mặt phẳng sau của đốt sống nén không thay đổi, khác với gãy xương rách.
二, kiểm tra X-quang tổn thương xoay
Khi chụp X-quang kiểm tra tổn thương xoay, có thể thấy một đốt sống quay quanh đốt sống khác. Thỉnh thoảng có thể thấy khoảng cách giữa các đốt sống trở nên hẹp hơn, chủ yếu do tổn thương vòng sợi và nhân đĩa đệm. Góc trên gân trước của đốt sống tiếp theo có thể bị rách một mảnh nhỏ bởi vòng sợi, nhưng chiều cao của đốt sống không thay đổi. Một số ít chỉ có khoảng cách giữa các đốt sống trở nên hẹp hơn, không có rách vòng sợi.
Ba, gãy xương rách
Gãy xương rách là do lực tác động theo trục dài của cơ thể gây ra. Đĩa đệm bị ép vào mặt phẳng cuối của đốt sống, vào xương spongy gây tổn thương. Đốt sống bị nứt ra như kiểu 'nổ' từ trung tâm, đẩy các mảnh gãy ra tứ phương, có gãy xương gai sau đốt sống, và có mảnh xương gai chui vào ống sống. Khoảng cách giữa gốc gai đốt sống bị nứt ra, mở rộng. Thường kèm theo gãy ngang mặt phẳng sau đốt sống, khi mặt phẳng trước của đốt sống nứt ra lớn hơn, gãy mặt phẳng sẽ rõ ràng hơn (dấu chấm). Có khi chỉ có gãy mặt phẳng trong của đốt sống, cần chụp CT mới phát hiện được. Gãy xương rách có thể chia thành năm loại:
1Cùng với đó, có tổn thương trên và dưới mặt phẳng cuối, kèm theo mảnh xương gai sau đốt sống chui vào ống sống, ép tủy sống, gây ra các triệu chứng hệ thần kinh.
2、Gãy phần trên của cột sống, cột sống sau bị nén, có mảnh xương gãy quay vào ống sống, loại này gặp nhiều nhất.
3、Tổn thương đĩa đệm dưới cột sống.
4、Gãy loại nổ kết hợp với gãy quay, ngoài các đặc điểm của gãy nổ, còn có thể thấy gai cột sống quay lệch sang một bên;
5、Gãy loại nổ kết hợp với gãy nén bên, đường gãy斜 qua cột sống, khoảng cách giữa rễ cột sống mở rộng, chiều cao hai bên của cột sống khác nhau, thường kèm theo nhiều gãy gai, loại này rất không ổn định. Đặc điểm chính của gãy loại nổ là: khoảng cách giữa rễ cột sống mở rộng, cột sống sau bị nén, chiều cao giảm, và chiều rộng ngang của cột sống tăng. Hầu hết các gãy nổ đều có các triệu chứng hệ thần kinh.
IV. Gãy kéo lực
Gãy kéo lực còn gọi là gãy slice (gãy lát). Thường do lực co quay gây ra, tất cả các dây chằng trước và sau của cột sống bị rách, có thể kèm theo gãy các khớp nhỏ hoặc lớn một bên hoặc hai bên, gai và rễ cột sống, nhưng không có sự phá hủy xương sụn của cột sống, chiều cao của cột sống không thay đổi. Tuy nhiên, lực kéo quay có thể kéo ra một mảnh xương nhỏ từ phần trên của cột sống tiếp theo, giống như cắt một lát mỏng bằng dao. Do cấu trúc gần như hoàn toàn bị cắt ngang, độ不稳定 của gãy rất cao, bệnh nhân thường bị liệt hoàn toàn. Phim X-quang có thể thấy đặc điểm của gãy slice và khoảng cách giữa các đốt sống mở rộng.
V. Gãy xương sau cột sống
Gãy xương sau cột sống còn gọi là gãy seatbelt (gãy dây an toàn). Bởi vì Chance1948Năm đầu tiên mô tả gãy này, do đó tài liệu thường gọi là gãy Chance, là một loại gãy co giãn. Mekhanismă典型的 thương tích là dây đai an toàn của xe buýt bị gài vào phần lưng và bụng của bệnh nhân, khi xe chạy với tốc độ cao đột ngột giảm tốc hoặc va chạm, phần thân trên của bệnh nhân gấp lên trên điểm cố định của dây đai, lực trước cũng tạo ra một lực đè ngược vào đầu gối trước, sau đó đâm vào thanh vít ép và vặn chặt vít để cố định. Cần đặc biệt lưu ý rằng, đối với những trường hợp có khoảng cách giữa đốt sống sau mở rộng và có gãy rời, có nghĩa là có tổn thương đĩa đệm, sau khi复位 bằng kỹ thuật ép Harrington, có thể xuất hiện các triệu chứng hệ thần kinh. Điều này là do khi ép, đĩa đệm bị thương chèn vào ống sống và ép vào tủy sống. Đối với loại gãy này, trước khi ép复位, cần phải loại bỏ đĩa đệm bị thương.