Người bệnh chấn thương xương sống tủy sống cấp tính, mỗi hệ thống đều bị ảnh hưởng. Co thắt phổi và ứ đọng dịch tiết đường hô hấp thường gây viêm phổi và các biến chứng đường hô hấp khác, ứ đọng trong hệ thống tim mạch thường xuất hiện hội chứng栓 tĩnh mạch sâu. Theo các nghiên cứu, các trường hợp栓 tĩnh mạch sâu gây viêm tĩnh mạch hoặc viêm phổi致死 đã được báo cáo.3%~13%。 Da ở vùng mất cảm giác bị áp lực có thể gây ra vết loét, loét. Cơ thể không thể hoạt động gây teo cơ và co thắt nghiêm trọng của mô mềm xung quanh khớp. Hệ thống tiết niệu ứ đọng gây nhiễm trùng thường xuyên và hình thành calcium hóa. Hệ thống xương không hoạt động gây mất calcium lớn, dẫn đến sỏi tiết niệu, xương ở nơi không nên có, bệnh loãng xương nghiêm trọng và cuối cùng là gãy xương bệnh lý. Tắc ruột do liệt tiêu hóa gây tắc ruột, loét, chảy máu và táo bón mạn tính, thậm chí còn có thể kèm theo viêm tụy.
4Người bệnh chấn thương xương sống tủy sống cấp tính từ 0 tuổi trở lên nếu vì sốc thần kinh gây rối loạn nhịp tim, có tiền sử bệnh tim mạch hoặc tim bị tổn thương trực tiếp thì cần có sự giám sát chặt chẽ chỉ số tim mạch. Đối với người trẻ, tình trạng sức khỏe tốt, cho phép một ống dẫn truyền trung tâm áp lực tĩnh mạch nhiều đầu và đường tĩnh mạch ngoại vi, giám sát liên tục điện tâm đồ rất có lợi cho việc giảm thiểu các biến chứng tim mạch.
Tổn thương xương sống tủy sống cấp tính phổ biến nhất vẫn là các biến chứng ảnh hưởng đến hệ thống hô hấp, do liệt cơ sườn gây ra sự thay đổi chức năng phổi, có thể xuất hiện trực tiếp tổn thương xương sườn và mô phổi ở bệnh nhân bị chấn thương đa phát. Đối với bệnh nhân liệt tứ chi cao, thường được chỉ định đặt ống nội khí quản phòng ngừa, khi oxy trong máu động mạch không đủ hoặc có tình trạng khó thở thì cần cung cấp oxy, mỗi4giờ làm một lần điều trị vật lý phổi, nếu cần thiết có thể sử dụng mặt nạ oxy, ống mũi hoặc mặt nạ áp suất cuối thở để duy trì mức độ khí máu trong phạm vi bình thường; làm ống thông khí quản nên cố gắng thông qua khí quản mũi, tránh mổ hở khí quản.
Trong C1~4 bệnh nhân liệt tứ chi bị tổn thương, nếu không có thở tự chủ nên thực hiện mổ hở khí quản sớm, và chuẩn bị hỗ trợ đường thở mạn tính, kiểm tra siêu âm间歇, kiểm tra điện生理 của phổi và dây thần kinh phổi. Ngoài ra, cần theo dõi chặt chẽ thể tích phổi, thể tích thở và các tham số thở khác. Bệnh nhân chấn thương tủy sống cấp tính, đặc biệt là bệnh nhân liệt tứ chi nếu rút ống thở quá sớm sẽ xuất hiện tắc mủ, phổi không mở, thậm chí là suy hô hấp.
Khi bệnh nhân chấn thương tủy sống cấp tính xuất hiện chảy máu tiêu hóa cấp tính thường có thể gây tử vong, vì vậy cần truyền tĩnh mạch chất ức chế ion hydro, đặt ống dạ dày, duy trì引流 thấp của dịch tiết dạ dày, mỗi4giờ kiểm tra giá trị pH. Bệnh nhân chấn thương tủy sống cấp tính ở mức độ cổ thường có sốc thần kinh, loại bệnh nhân này thường có triệu chứng như hội chứng cắt bỏ thần kinh giao cảm, như tăng tiết axit dạ dày, thiếu máu tương đối ở đường tiêu hóa và yếu, rất dễ gây loét stress.
Ngoài các biến chứng tim phổi, một trong những nguyên nhân chính gây tử vong của bệnh nhân chấn thương tủy sống cấp tính là nhiễm trùng đường tiết niệu kèm theo nhiễm trùng máu. Việc xử lý hệ thống sinh dục và tiết niệu bắt đầu từ phòng cấp cứu, chèn ống Foley để theo dõi lượng nước tiểu, chú ý có máu mắt cá hoặc máu dưới kính hiển vi, bệnh nhân có ống thông mỗi4Cần làm một lần xét nghiệm nước tiểu vi khuẩn mỗi ngày, vì có thể có nhiễm trùng đường tiết niệu không có triệu chứng rõ ràng.
Hầu hết các bệnh nhân chấn thương tủy sống cấp tính đều có thể phát hiện vi khuẩn trong bàng quang liệt, ngoài ra, trong ICU còn có rất nhiều ống chèn vào, như ống truyền tĩnh mạch, ống truyền động mạch, thậm chí là ống truyền tim và kẹp kéo sọ não, đều có nguy cơ cao bị nhiễm trùng máu, vì vậy tất cả các biện pháp điều trị và chăm sóc đều nên thực hiện nghiêm ngặt theo quy trình vô trùng, và thực hiện các quy trình chăm sóc liên quan.