一、Nguyên nhân gây bệnh
Nghiên cứu nguyên nhân gây thấp lõm cột sống cần phải làm rõ quá trình phát triển thần kinh phôi thai bình thường. Trong quá trình phát triển phôi thai của con người vào ngày16ngày, trên mặt phẳng rốn sợi xương sống, lớp biểu bì ngoại bào dày lên hình thành bảng thần kinh, sau đó hai bảng thần kinh tăng lên và dời vào trung tuyến, kết hợp thành thần kinh管. Sự kết hợp của thần kinh管 đầu tiên xuất hiện vào ngày22ngày, nằm ở vị trí3mức độ thể tiết, tức là khu vực hình thành não干 trong tương lai, sự kết hợp bắt đầu từ vị trí nguyên基 thị giác, và phát triển từ não干 và vị trí nguyên基 thị giác đến đầu và đuôi hai hướng.23~26ngày đóng kín, nếu không đóng kín thì sẽ hình thành thấp lõm đầu và dị tật não không đầu. Sau đó, thần kinh管 phát triển trong quá trình phát triển của phôi thai vào ngày26~3ngày đóng kín, nếu không đóng kín thì sẽ hình thành thấp lõm cột sống.
二、Cơ chế gây bệnh
Thấp lõm cột sống thuộc dị tật thần kinh管 (NTD), NTD là bệnh di truyền đa gen, cơ chế gây bệnh của nó rất phức tạp, đa phương diện, nhiều yếu tố xâm nhập sẽ ảnh hưởng đến quá trình gây bệnh, dựa trên thí nghiệm động vật, quan sát lâm sàng và nghiên cứu dịch tễ học, cho rằng NTD là kết quả của sự tác dụng chung của yếu tố di truyền và yếu tố môi trường (môi trường trong tử cung):
1Yếu tố di truyền trong nghiên cứu cơ chế gây bệnh của NTD, rất khó phân biệt giữa tác dụng của đa gen或多 yếu tố với tác dụng phức tạp của yếu tố môi trường, như một số gia đình có thể liên quan đến môi trường sống chung. Do đó, trong cơ chế gây bệnh, thường归结 một số đặc điểm là kết quả của tác dụng của gen, chẳng hạn như sự thay đổi của tỷ lệ发病率 của NTD ở các khu vực và dân tộc khác nhau, tỷ lệ发病率 của NTD cao trong hôn nhân họ hàng, nguy cơ tái phát cao trong gia đình bị NTD.
Nghiên cứu gia đình cho thấy, phụ nữ mang thai có lịch sử gia đình bị NTD, tỷ lệ sinh con bị NTD cao hơn so với dân số thông thường. Nghiên cứu của Cater và Evans cho rằng, chỉ cần một trong hai cha mẹ có lịch sử bị NTD, thì tỷ lệ发病率 của NTD ở con cái của họ là3% cao hơn so với dân số thông thường. Đã có2lần trở lên có kinh nghiệm sinh con bị NTD, nguy cơ sinh thêm em bé bị NTD sẽ tăng10% Ngoài ra, tỷ lệ发病率 của NTD trong các cặp song sinh cao hơn so với dân số thông thường, và tỷ lệ发病率 của song sinh cùng trứng lại cao hơn so với song sinh khác trứng. Các kết quả nghiên cứu này đều ủng hộ yếu tố di truyền trong tác dụng của NTD.
Kết quả nghiên cứu di truyền học liên quan đến NTD không thể được giải thích bằng quy luật di truyền đơn gen của Mendel, mà có cơ sở là nhiều cặp gen di truyền, tức là gen yếu. Các gen yếu không có sự khác biệt隐性 hoặc显性, tác dụng của chúng là tích lũy, hiệu ứng tích lũy và tác dụng của yếu tố môi trường đạt đến một ngưỡng nhất định thì sẽ phát bệnh. Do đó, sự xuất hiện của NTD là do di truyền đa gen, về việc yếu tố di truyền có đóng góp như thế nào trong sự xuất hiện của NTD thì vẫn chưa được xác định.
2Yếu tố gây dị tật môi trường trong thời kỳ mang thai sớm, thường vào3Trong tháng nội tiết tố ảnh hưởng đến mẹ bầu, gây ra rối loạn trong quá trình phát triển thần kinh管 dẫn đến dị tật. Các yếu tố môi trường thường gặp liên quan đến NTD bao gồm thiếu hụt axit folic và nhiều vitamin khác trong thời kỳ mang thai sớm, thiếu hụt kẽm và các vi chất khác, phản ứng mang thai nặng nề, nhiễm trùng virus, sử dụng một số loại thuốc, say rượu, bức xạ ion hóa, và tiếp xúc với một số chất hóa học.
Các nghiên cứu nhiều hơn là về axit folic và các vitamin khác (bao gồm vitamin A, B1B2C, D, E, niacin, v.v.) thiếu hụt và mối quan hệ với NTĐ, đặc biệt là mối quan hệ giữa axit folic và NTĐ, từ20 thế kỷ8Kể từ những năm 0 đã đạt được những bước tiến vượt bậc. Hiện nay đã xác định thiếu axit folic ở giai đoạn đầu của thai kỳ của phụ nữ là nguyên nhân chính gây NTĐ. Các nguyên nhân như hấp thu không đủ, hấp thu kém, rối loạn chuyển hóa hoặc cần tăng thêm đều có thể gây thiếu axit folic, dẫn đến rối loạn tổng hợp DNA, từ đó ảnh hưởng đến sự phân chia và tăng trưởng của tế bào. Axit folic là một vitamin tan trong nước, là một loại dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của hệ thần kinh sớm của thai nhi. Giai đoạn đầu của thai kỳ là thời điểm phân hóa của胚胎, hình thành nhau thai, sự tăng trưởng và phân chia của tế bào rất mạnh, nếu mẹ bầu thiếu axit folic, sẽ ảnh hưởng đến hình thành hệ thần kinh sơ của thai nhi.-Phát triển bình thường của ống thần kinh, sau đó sẽ dẫn đến sự kết hợp không tốt của xương sọ hoặc xương sống, xuất hiện NTĐ, gây ra sảy thai tự nhiên, thai chết lưu.
Việc thiếu kẽm ở giai đoạn đầu của thai kỳ của mẹ cũng là một yếu tố môi trường gây ra NTĐ ở thai nhi. Thiếu hụt các vi chất khác như đồng, canxi, selenium cũng có thể gây NTĐ, nhưng tác dụng确切 của chúng vẫn chưa rõ. Về nguyên nhân gây NTĐ do phản ứng phụ nghiêm trọng của thai kỳ, có thể là do nôn mạnh gây mất nước tạm thời, dẫn đến thiếu vi chất (như kẽm) hoặc vitamin (như axit folic).
Nghiên cứu virus học cho thấy, việc nhiễm virus rubella hoặc virus cúm A ở giai đoạn đầu của thai kỳ của mẹ có thể gây ra rối loạn phát triển hệ thần kinh trung ương của thai nhi, có thể xảy ra NTĐ. Sự nhiễm toxoplasma ở giai đoạn đầu của thai kỳ cũng có thể gây NTĐ. Nếu mẹ bầu ở giai đoạn đầu của thai kỳ tiếp xúc với bức xạ từ bụng hoặc vùng chậu, sự phát triển hệ thần kinh trung ương của thai nhi thường bị ảnh hưởng, một số trường hợp có NTĐ.
Mẹ bầu bị癫痫 sử dụng valproate, phenobarbital và phenytoin sodium và các thuốc chống co giật khác, hậu duệ của họ dễ bị NTĐ. Sử dụng thuốc tránh thai bằng miệng sớm trong怀孕, sử dụng một số thuốc chống ung thư như methotrexate, adenine (aminopurine) và mercaptopurine, cũng như sử dụng liều cao hoặc liên tục corticosteroid như prednisolone (prednisolone), đều có thể gây NTĐ. Mekhânh tác động có thể liên quan đến việc xáo trộn chuyển hóa axit folic.