1Nguyên nhân
Nghiên cứu di truyền học cho thấy bệnh này có tính di truyền隐性 lưỡng đột.
2Cơ chế
Cơ chế gây bệnh của bệnh cầu thận lipoprotein chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn, nhiều người cho rằng liên quan đến rối loạn chuyển hóa mỡ. Hiện nay đã biết rằng rối loạn chuyển hóa mỡ có thể gây tổn thương cầu thận; tổn thương cầu thận cũng có thể ảnh hưởng đến chuyển hóa mỡ. Nhiều bệnh toàn thân (bao gồm cả bệnh Fabry hiếm gặp, NiemanPick và bệnh Gaucher) sẽ làm tăng lượng mỡ tích tụ trong thận, rất phổ biến là mỡ tích tụ trong thận là do hội chứng thận hư, tăng mỡ máu là biểu hiện đặc trưng, vì hội chứng thận hư sau khi được điều trị hiệu quả sẽ làm mức mỡ máu trở lại bình thường, trong trường hợp này tăng mỡ máu là hậu quả của bệnh thận.
Là con đường chính của chuyển hóa lipoprotein. Apolipoprotein là tín hiệu và dấu hiệu nhận diện lipoprotein của thụ thể, trong đó apoE là một trong những thành phần chính của apolipoprotein. ApoE có thể kết hợp với thụ thể mảnh vón của lipoprotein chyle và thụ thể lipoprotein mật độ thấp, vì vậy apoE trở thành yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức mỡ máu. Hiện nay, nghiên cứu phát hiện rằng các thể dị hình apoE có biểu型 gen khác nhau có hoạt tính kết hợp với thụ thể khác nhau, vì vậy các thể dị hình apoE có hoạt tính thụ thể khác nhau này có thể ảnh hưởng đến chuyển hóa mỡ máu. Ví dụ, thể dị hình chứa E4/4Biểu型 của cơ thể, hoạt tính kết hợp với thụ thể apoE tăng rõ ràng, tốc độ loại bỏ mảnh vón của lipoprotein chyle tăng nhanh, mức mỡ máu giảm; biểu型 gen apoE của bệnh脂血症 gia đình loại III là thể đơn hợp apoE2/2Thiếu khả năng kết hợp với thụ thể lipoprotein, do đó gây rối loạn chuyển hóa lipoprotein, mức chất béo trong máu tăng cao. Gen biểu型 apoE của bệnh này là thể đa hợp apoE2/2Chính vì vậy, người ta cho rằng thể dị hình này cũng có khả năng kết hợp với thụ thể lipoprotein bị suy giảm, dẫn đến mức lipoprotein trong máu tăng cao. Bệnh này có rất nhiều điểm tương tự với bệnh脂血症 gia đình loại III: mức cholesterol toàn phần, triglyceride và mức apoE đều tăng cao, điện泳 cho thấy dải tiền β-lipoprotein mở rộng, có biểu hiện của hội chứng thận hư, v.v. Nhưng loại sau có xu hướng phát triển sớm bệnh mạch vành động mạch, thường xuất hiện nốt vàng da, dễ bị teo cơ chi间歇, có bệnh tăng acid uric máu, v.v. Những biểu hiện lâm sàng này không xuất hiện ở bệnh lipoprotein bệnh cầu thận, cho thấy có sự khác biệt. thông qua nghiên cứu về biểu型 gen apoE, dự đoán rằng thể đa hợp apoE của bệnh này, hoạt tính kết hợp với thụ thể apoE tăng rõ ràng, tốc độ loại bỏ mảnh vón của lipoprotein chyle tăng nhanh, mức mỡ máu giảm; thể đa hợp apoE của bệnh脂血症 gia đình loại III là thể đơn hợp apoE2lai có xu hướng gây bệnh lipid protein glomerulus.
cũng có học giả từ phân tích amino acid của các isomer apoE phát hiện rằng cấu trúc một cấp của các isomer này khác nhau, từ đó suy đoán rằng có thể do sự thay đổi của amino acid, ảnh hưởng đến cấu trúc của apolipoprotein, từ đó ảnh hưởng đến cấu trúc của lipid protein, dễ dàng đọng lại trong glomerulus, gây ra tổn thương trực tiếp cho glomerulus. Ví dụ, có người phát hiện rằng apoE3chứa1cysteine, apoE4không chứa cysteine, apoE2chứa2cysteine lại nhiều hơn apoE3thiếu1các arginine, chính là do cysteine/thay đổi arginine phản ánh sự khác biệt về điện tích giữa chúng. Màng đáy của glomerulus luôn mang điện tích âm chiếm ưu thế, dự đoán rằng apoE2dễ dàng gắn kết với màng đáy mà không dễ dàng được清除 khỏi mao mạch, dẫn đến sự phát triển của bệnh này.
Oikawa và các cộng sự còn phát hiện3ví dụ bệnh nhân lipid protein glomerulus, các isomer apoE của họ rất đặc biệt,145arginine bị thay thế bởi proline, được đặt tên theo tên địa danh (Sendai) để gọi loại vật chất này, gọi là apoE Sendai, hoặc apoESendai. Do nguyên tử nitơ trong cấu trúc proline nằm trong vòng bốn nguyên tử cứng, không có hydro trên nguyên tử nitơ của liên kết peptide nên không thể hình thành liên kết氢. Người ta thường cho rằng ở các vị trí có proline trong chuỗi peptide, hướng đi của chuỗi peptide gấp khúc, không thể hình thành α-do đó proline là α-Killer của螺旋. Trong apoESendai, do proline phá hủy cấu trúc螺旋 của protein apoE, gây ra sự biến dạng toàn bộ hoặc cục bộ, tiếp tục đọng và tập trung trong glomerulus, gây ra bệnh lý của glomerulus.
Từ trên có thể thấy, các nghiên cứu về cơ chế gây bệnh của lipid protein glomerulus tập trung vào mối quan hệ giữa loại hình di truyền của apoE và chuyển hóa lipid protein cũng như ảnh hưởng của sự thay đổi cấu trúc amino axit của các isomer apoE dẫn đến sự biến dạng cấu trúc của globulin. Watanabe và các cộng sự đã đề xuất cơ chế gây bệnh nguyên địa của bệnh lipid protein thận. Saito và các cộng sự cũng phát hiện qua quan sát bằng kính hiển vi điện tử rằng, sự đọng脂 protein bắt đầu ở màng đệm của glomerulus, lipid protein dư thừa có thể xâm nhập vào lòng mao mạch của glomerulus, tạo thành cục máu đông lipid protein. Các thành phần trong cục máu đông lipid protein phụ thuộc vào thành phần và hàm lượng của các loại lipid khác nhau của bệnh nhân. AnHangYang và các cộng sự thì cho rằng loại hình di truyền không quan trọng lắm trong cơ chế gây bệnh của bệnh lipid protein glomerulus, sự thay đổi của môi trường mao mạch cục bộ có thể quan trọng hơn trong việc gây bệnh. Họ đã sử dụng probucol (Probucol, propylphenol) - một chất chống oxy hóa để điều trị bệnh này và có hiệu quả, do đó dự đoán rằng sự đọng lipid protein có thể liên quan đến sự bất thường của môi trường mao mạch cục bộ của glomerulus và trạng thái tiền oxy hóa. Cần nghiên cứu sâu hơn về cơ chế gây bệnh chính xác của bệnh lipid protein glomerulus.