治療急進性肾炎應及早進行。若新月體在7trên, hoặc nồng độ creatinin trong máu5mg% trở lên, mặc dù cứu chữa tích cực, nhưng cơ hội phục hồi chức năng thận không nhiều, nhưng thường có những trường hợp báo cáo những trường hợp nghiêm trọng cải thiện sau khi lọc máu và điều trị tích cực. Trong máu của những bệnh nhân này thường có nồng độ kháng thể chống màng cơ bản hoặc kháng thể phức hợp cao, nếu không loại bỏ có thể tiếp tục tác động đến cầu thận, gây tổn thương không thể hồi phục. Ngoài ra, phản ứng miễn dịch kích thích凝血 là yếu tố kích thích tế bào biểu mô túi cầu tăng sinh, tạo thành thể mới. Trong các thí nghiệm động vật, việc sử dụng heparin sớm có thể giảm hoặc ngăn ngừa sự hình thành thể mới, vì vậy có thể áp dụng các biện pháp sau.
1sử dụng liều lượng lớn corticosteroid và chất ức chế miễn dịch để ức chế phản ứng viêm, giảm sản xuất kháng thể.
2sử dụng heparin không phân tử lớn, urokinase, warfarin kết hợp với dipyridamole để điều trị.
3do bệnh này có病程 tiến triển liên tục, tiên lượng rất xấu, phương pháp điều trị không lọc máu không có hiệu quả xác định, khi xuất hiện trường hợp suy thận cuối cùng nên sử dụng lọc màng bụng hoặc lọc máu, hai phương pháp này an toàn hơn so với việc sử dụng corticosteroid hoặc chất ức chế miễn dịch trong thời gian dài. Đối với những bệnh nhân lớn tuổi, chức năng tim mạch yếu, có xu hướng xuất huyết, nên chọn lọc màng bụng.
4sử dụng phương pháp thay đổi血浆 để giảm nồng độ kháng thể hoặc kháng thể phức hợp trong máu. Mỗi ngày thay đổi血浆2~4L hoặc mỗi tuần3lần, sử dụng kết hợp corticosteroid và thuốc ức chế miễn dịch, đặc biệt là những bệnh nhân có Ig lắng đọng tuyến tính trong cầu thận, hiệu quả gần đây rất rõ ràng.
5Sau ghép thận, bệnh nhân có thể tái phát, nhưng khó xác định mỗi trường hợp cụ thể có khả năng tái phát bao nhiêu. Những bệnh nhân có kháng thể chống màng cơ bản trong máu, sau khi bắt đầu điều trị lọc máu, cần theo dõi3~6tháng sau đó mới tiến hành ghép thận.