Việc điều trị bệnh viêm cầu thận màng đệm tăng sinh nên dựa trên biểu hiện lâm sàng kết hợp với đặc điểm bệnh lý học để chọn lựa sử dụng, và cần thông qua theo dõi lâu dài để điều chỉnh phương án điều trị. Điều trị chung với các bệnh thận khác.
1, tiểu máu đơn thuần:sự thay đổi bệnh lý chỉ có sự tăng trưởng màng đệm nhẹ, protein niệu trung bình dưới, kèm theo hoặc không kèm theo tiểu máu,24bệnh nhân, định lượng protein niệu dưới1.5bệnh nhân, sự thay đổi bệnh lý nhẹ hoặc trung bình, không cần điều trị đặc biệt. Đối với định lượng protein niệu1~2g/24bệnh nhân, điều trị bằng liều lượng corticosteroid thông thường giúp rút ngắn thời gian缓解, giảm sự thay đổi bệnh lý của thận.
2, protein niệu nặng hoặc hội chứng bệnh thận hưBất kể sự thay đổi bệnh lý của bệnh nhân nhẹ hay nặng, đều nên điều trị bằng liều lượng corticosteroid đầy đủ. Thậm chí khi sự thay đổi bệnh lý bệnh lý học chỉ là sự tăng trưởng màng đệm nhẹ, không có sự lắng đọng Ig và (hoặc) complement lan tỏa, không có bệnh lý硬化 đám thận khu trú, cũng cần điều trị bằng prednisone (强的松). Liều lượng cho trẻ em60mg/(m2.d), liều lượng cho người lớn40 đến60mg/d, sau điều trị thông thường trong4~6tháng trong việc giảm liều dần duy trì; hoặc metyprednisolone (methylprednisolone)}10g/d, tổng cộng3ngày, sau đó chuyển sang uống prednisone (强的松)40mg/d4~8tuần sau giảm liều duy trì. IgM và C3dương tính, đa số các trường hợp có phản ứng nhạy cảm với hormone và tiên lượng tốt. Đối với bệnh nhân phụ thuộc vào hormone và không nhạy cảm với hormone, trong khi sử dụng hormone, thêm thuốc ức chế miễn dịch như cyclophosphamide, benzbromarone hoặc azathioprine; thường sử dụng cyclophosphamide, mỗi lần1g, hàng tháng1lần, liên tục12~16tháng, giúp củng cố hiệu quả,提高 tỷ lệ giảm nhẹ và kéo dài thời gian giảm nhẹ. Theo báo cáo, liệu pháp kết hợp có thể làm60% các trường hợp tái phát giảm. Ngoài ra, theo tình trạng bệnh, có thể thêm thuốc chống đông máu hoặc thuốc ức chế tiểu cầu, thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACEI) và heparin. ACEI có thể giảm tác dụng của angiotensin II, giảm áp lực cầu thận và độ thấm màng đáy, ức chế sự tăng sinh tế bào màng đệm, từ đó giảm protein niệu, bảo vệ chức năng thận. Heparin có thể ức chế sự tăng sinh tế bào màng đệm rõ ràng ở ngoài cơ thể, trong khi ức chế Th1-1Mô hình viêm cầu thận màng đệm, đã chứng minh rằng có thể ức chế sự tăng sinh của tế bào màng đệm, giảm sự biểu hiện của yếu tố tăng trưởng tế bào màng đệm, tế bào bào tạo sợi và thụ thể PDGF, từ đó ức chế sự tổng hợp của基质 màng đệm. Heparin còn có tác dụng bảo vệ hoặc sửa chữa lớp điện tích màng đáy cầu thận, vì vậy, heparin có thể trở thành loại thuốc có triển vọng trong điều trị viêm cầu thận màng đệm.
3, kết hợp với tăng huyết áp và suy thận chức năng:Loại này là loại có tiên lượng xấu nhất. Thay đổi bệnh lý cho thấy sự tăng sinh màng đệm từ trung bình đến nghiêm trọng và sự kết hợp với sự cứng hóa cầu thận khu trú và đoạn, thường phản ứng kém với hormone. Nếu có sự dính màng bao, co rút ống thận, sự tăng sinh mô liên kết, hiệu quả của hormone sẽ kém hơn. Loại bệnh nhân này thường có biểu hiện rõ ràng là máu niệu, protein niệu持续性, tăng huyết áp và suy thận, và dần dần tiến triển thành suy thận cuối cùng. Đối với những bệnh nhân có sự tăng sinh màng đệm rõ ràng, thường sử dụng liệu trình hormone đầy đủ8Tuần, nếu hiệu quả không tốt thì kéo dài liệu trình hormone1Năm, có thể đạt được hiệu quả hài lòng hơn. Hoặc trong khi điều trị bằng hormone theo quy định, thêm thuốc ức chế miễn dịch và thuốc chống đông máu, thuốc chống tiểu cầu, nhưng hiệu quả vẫn chưa được xác định rõ ràng. Đối với những bệnh nhân đã bước vào giai đoạn suy thận mạn tính, cần thực hiện sớm điều trị lọc máu và ghép thận.