Một, nguyên nhân gây bệnh
Ung thư bàng quang gây ra bởi chất gây ung thư hóa học đã được chứng minh, nhưng cũng có nhiều bệnh nhân ung thư bàng quang không có lịch sử tiếp xúc với chất gây ung thư hóa học, hiện tại quan điểm phổ biến là: virus hoặc một số chất gây ung thư hóa học tác động đến gen nguyên癌 của cơ thể, kích hoạt chúng trở thành gen ung thư. Liên quan đến các yếu tố sau:
1、ngành nghề tiếp xúc lâu dài với các chất thơm mộc, chẳng hạn như hóa chất dệt, da, cao su, công nhân sơn, tần suất ung thư bàng quang tăng cao.1954năm trước có học giả thống kê. Trong số công nhân tiếp xúc với anilin, tần suất ung thư bàng quang cao hơn so với dân số thông thường30 lần. Diphenyl (benzidine),4,4-diaminobiphenyl (diaminobiphenyl)4,4-diaminobiphenyl)、4-oxy base diphenyl (oxy acid diphenyl)4-aminobiphenyl)、β-naphthylamine (β-naphthylamine) và các chất tương tự đều được coi là chất gây ung thư hóa học ngoại lai khá chắc chắn. Các chất này vào cơ thể. Sau khi được gan chuyển hóa, chúng được bài tiết vào bàng quang bởi thận, sau đó được β-glucuronidase (β-glucuronidase) phân hủy thành α aminonaphthalene, làm cho nó có khả năng gây ung thư, dẫn đến ung thư bàng quang nghề nghiệp. Loại chất này có thời gian潜伏期较长, lên20 năm.
2、hút thuốc cũng là một nguyên nhân tăng cường tần suất ung thư bàng quang. Các nghiên cứu gần đây cho thấy sự chuyển hóa của chất gây ung thư tryptophan trong nước tiểu của người hút thuốc tăng lên50%, khi ngừng hút thuốc, mức độ tryptophan trở về bình thường. Rose và Walleace (1973) nghiên cứu, ở người hút thuốc và người không hút thuốc2mức độ tryptophan trong nước tiểu của bệnh nhân ung thư bàng quang có mức độ cao, trong đó người hút thuốc có mức độ cao. Còn người không hút thuốc là mức độ thấp. Họ còn phát hiện ra rằng vitamin C có thể giảm hoạt tính của tryptophan ở cả người hút thuốc và người không hút thuốc.
3、rối loạn chuyển hóa tryptophan trong cơ thể. Rối loạn chuyển hóa của axit tryptophan có thể sản sinh ra một số sản phẩm chuyển hóa, chẳng hạn như3-hydroxy-2-oxy base phenyl (oxy acid phenyl)3-hydroxy-2-aminoacetophenone)、3-hydroxy-cách oxy base benzen (cách oxy acid benzen)3-hydroxy-anthrenilic acid), có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tổng hợp DNA và RNA của tế bào, các sản phẩm chuyển hóa này sau khi được gan chuyển hóa sau đó bài tiết vào bàng quang, qua β-glucuronidase) có thể gây ung thư. Thường thì các chất gây ung thư này trong nước tiểu của bệnh nhân ung thư bàng quang có nồng độ rõ ràng tăng lên.
4、màng bàng quang bị kích thích lâu dài tại chỗ, chẳng hạn như nhiễm trùng mãn tính, kích thích lâu dài của sỏi bàng quang và tắc nghẽn đường tiểu, có thể là yếu tố gây ra ung thư. Còn viêm bàng quang tuyến và bạch loạn niêm mạc được coi là tiền ung thư.
5、thuốc. Trong những năm gần đây, việc sử dụng thuốc gây ra ung thư bàng quang cũng được chú ý, chẳng hạn như việc sử dụng nhiều nonacetic (phenacetine) và các loại thuốc tương tự, đã được chứng minh có thể gây ra ung thư bàng quang.
6、bệnh ký sinh trùng. Trong số bệnh nhân bị血吸虫埃及严重,发病率 của ung thư bàng quang rất cao.
7、DNA của virus HPV có thể gắn kết với đoạn DNA của các gen điều chỉnh apoptosis,干扰这些基因信息的传递、转录、复制,在多个环节上调控细胞周期而发挥其致癌作用。
8、膀胱癌的发病还与种族和环境因素有关。
二、发病机制
腺癌占原发性膀胱癌2%以下,分3类:原发性膀胱腺癌,脐尿管癌和转移性腺癌。腺癌也可发生在肠管代尿道通道,扩大膀胱等。原发性膀胱腺癌好发于膀胱底部(三角区、颈部、侧壁),膀胱顶部。腺癌在膀胱外翻中发病率最高,肠道腺癌的组织学类型如印戒细胞癌,胶样癌,在膀胱中均可发生。腺癌可能是乳头状或实体的。多数腺癌分化较差且有浸润,脐尿管癌极为罕见,多为腺癌起于膀胱外壁,且向膀胱浸润,脐尿管癌可扩散膀胱周围间隙。脐部可出现血性或黏液分泌物或黏液囊肿,若累及膀胱腔,尿中则可出现黏液。转移性腺癌主要来源于直肠、胃、乳房、前列腺和卵巢。