1. Điều trị
phẫu thuật là phương pháp điều trị duy nhất cho bệnh tắc mật đường mật. Theo loại tắc mật đường mật mà Kasai đề xuất, có thể chia thành “thuộc về nối ghép” hoặc “thuộc về điều trị”, loại này có đường mật ngoại gan tương đối bình thường hoặc giãn nở, có thể phục hồi lưu thông mật thông qua phẫu thuật nối mật ruột, hiệu quả tốt. Loại khác là “không thuộc về nối ghép” hoặc “không thuộc về điều trị”, đối với loại này có hai phương pháp điều trị: nối mật gan ruột (phẫu thuật Kasai) hoặc ghép gan. Từ khi1959năm Nhật Bản Kasai thực hiện phẫu thuật nối mật gan ruột đầu tiên cho bệnh tắc mật đường mật, sau gần4năm qua thực hành lâm sàng thực sự có một số trẻ em có thể sống lâu dài, trong đó không thiếu những trẻ em có chất lượng cuộc sống gần như trẻ em bình thường. Các bài báo khoa học đã báo cáo rằng sau phẫu thuật nối mật gan ruột của trẻ em bị tắc mật đường mật40%~5% có hiệu quả dài hạn tốt, việc dẫn mật hiệu quả, phần còn lại50%~6% thường xuất hiện các biến chứng muộn, trong đó phần lớn cần được2tuổi nên thực hiện phẫu thuật ghép gan. Hiện nay, với sự phát triển của kỹ thuật ghép gan và sự sử dụng của các loại thuốc ức chế miễn dịch mới như cyclosporin, tacrolimus, tắc mật đường mật đã trở thành chỉ định chính cho ghép gan trẻ em.
như đã đề cập, do bệnh tắc mật đường mật của trẻ em có thể phát triển tiến triển thành xơ gan, vượt qua3tháng sau đã không thể ngược lại, vì vậy nên xác định chẩn đoán sau6ngày hoàn thành phẫu thuật, nếu không thể phân biệt được tắc mật đường mật và hội chứng gan của trẻ sơ sinh, cũng có thể thực hiện6~8trong vòng một tuần thực hiện mổ nội soi. Chuẩn bị trước mổ: Gan của trẻ sơ sinh chưa phát triển hoàn chỉnh và ruột nội bộ thiếu các nhóm vi khuẩn bình thường, sự tổng hợp vitamin K từ ruột không đủ, prothrombin thấp, có xu hướng chảy máu tự nhiên, trước mổ nên bổ sung vitamin K, đồng thời bổ sung glucose và vitamin B, C, D. Nếu có thiếu máu, nên truyền máu, đối với những người có protein huyết thanh thấp thì nên truyền血浆. Trước mổ nên sử dụng kháng sinh và chuẩn bị chụp mật đường mật trong phẫu thuật.
1、Phương pháp Kasai. Phương pháp này bao gồm hai phần cơ bản: giải phẫu cổ gan và nối mật gan ruột để重建 đường mật. Sau khi mổ mở, trước tiên nên kiểm tra lại hoặc chụp mật đường mật trong phẫu thuật để xác định chẩn đoán. Sau đó, tách túi mật, tách ra các sợi xơ còn sót lại của đường mật gan và đường mật tổng hợp, tách theo hướng cổ gan, các sợi xơ thường kéo dài thành các khối xơ hình tam giác ở vị trí phân nhánh của động mạch gan. Dãn kéo lá gan phía trên của gan về phía cổ gan, và sử dụng móc tĩnh mạch kéo xuống vị trí phân nhánh của động mạch gan, bộc lộ đầy đủ khối xơ đường mật cổ gan, cẩn thận giải phẫu tổ chức xơ cổ gan ở phần phân nhánh của động mạch gan vào gan, và buộc chặt2~3Cắt bỏ các mạch nhỏ từ tĩnh mạch vào khối xơ, sau đó cắt bỏ khối xơ, độ dày đạt đến bề mặt chất gan có thể thấy các mạch mật nhỏ mở ra từ từ chảy ra mật vàng. Các yếu tố quyết định hiệu quả của phẫu thuật nối mật gan với ruột là có hay không còn các mạch mật còn sót lại ở cổ gan khi phẫu thuật. Kích thước và mức độ của giải phẫu cổ gan cũng rất quan trọng,直接影响 việc thải mật ra cổ gan. Có thể cắt bỏ dây chằng tĩnh mạch bên ngoài động mạch gan trái để làm cho động mạch gan tự do, thuận lợi hơn cho việc bộc lộ và cắt bỏ khối xơ. Quá trình giải phẫu cổ gan có thể sử dụng kính phẫu thuật để làm cho việc cắt bỏ khối xơ chính xác hơn.
Cải tạo đường mật thường sử dụng ruột non qua hậu môn trực tràng nâng lên cổ gan để thực hiện nối ghép. Thường thì khoảng cách từ rốn Treitz khoảng15~20cm处切断空肠。闭合远端肠管,通过横结肠系膜后提至肝门区。吻合口做在肠系膜对侧肠壁上,长1~2cm,与肝门纤维团块基底长度相适应。保留上提肠襻约为20cm。然后行空肠-空肠Y形吻合。
为防止反流所致的上行性胆管炎,Suruga对术式做了改进,将升支切断作空肠皮肤外瘘,每天回收胆汁并重新注入。Suruga手术的优点是术后便于观察胆汁排出量、颜色,检测其中胆红素含量,进行细菌培养等。缺点是术后管理困难、增加了手术的次数、腹膜粘连严重,为日后行肝移植时带来操作上的困难。手术类型示意图(图4)。
术后治疗包括护肝、利胆、防止胆管炎。利胆很重要,除口服去氢胆酸,地诺前列酮(前列腺素E2除了肌注高血糖素(胰高血糖素)外,还可用中药如茵桅黄静脉滴注等。皮质激素在术后应适当应用,抗生素使用不少于1个月。
2、再手术问题对Kasai术后无胆汁排出、排出量少或一度排出良好,以后又中断等情况是否需要再手术,存在不同意见。有人认为再次腹部手术加重腹膜粘连,影响以后的肝移植手术以及肝移植的预后,因此在这种情况下,肝移植是适应症。
3、术后并发症及治疗
(1)术后胆管炎:与成人胆道梗阻引起的胆管炎不同,它只发生在肝门空肠吻合术后有胆汁排出的病儿,而不发生在解除梗阻后无胆汁排出的病例。胆道闭锁术后胆管炎的特点是黄疸程度迅速加深甚至超过术前,但极少发生梗阻性化脓性胆管炎。此外胆管炎往往难以控制,术后胆管炎对预后有很重要的影响,是Kasai术后最常见和最难处理的并发症。
引起胆管炎的主要原因是反流和肝内胆管发育异常。如果没有升支造瘘,必定会出现食物反流以及随之而来的肠内细菌上行感染,引发上行性胆管炎。升支造瘘可以预防食物反流引起的胆管炎,但同时也因为造瘘口与外界相通,依然具有发生胆管炎的条件。
根据术后发生胆管炎的时间可划分为早期胆管炎和晚期胆管炎。早期胆管炎发生在术后1个月内,此时胆管上皮尚未与肠黏膜上皮愈合,发生炎症后原本开放的胆管极易闭塞。病儿反复发作胆管炎如果不能控制,常因肝功能衰竭或败血症而死亡。晚期胆管炎发生在手术1个月后,病儿反复发作发热、黄疸,最终引起肝硬化或肝功能衰竭。持续发展和不可逆转性胆管炎是肝移植的适应症。
(2)肝纤维化和门脉高压症:文献报道患有胆管炎病儿的食管静脉曲张发生率是未患有胆管炎病儿的7bội, viêm đường mật tái phát nhiều lần có thể dẫn đến tổn thương gan nghiêm trọng, giai đoạn muộn có thể hình thành xơ gan và tăng áp lực tĩnh mạch chủ. Nghiên cứu còn phát hiện mặc dù phẫu thuật Kasai có thể đạt được hiệu quả dẫn lưu mật tốt, nhưng chức năng gan của trẻ em vẫn có thể suy giảm tiến triển, đặc biệt là ở tuổi dậy thì. Do đó, sự xơ hóa gan sau phẫu thuật đường mật là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả phẫu thuật, vì vậy có người đề xuất đo định lượng tiền collagen III, collagen type IV và endotelin trong血浆 để phản ánh và quan sát mức độ xơ hóa gan. Điều trị tăng áp lực tĩnh mạch chủ có thể sử dụng phương pháp nội soi tiêm chất cứng vào tĩnh mạch phình ở dạ dày, do dự đoán tiên lượng không tốt, phương pháp điều trị根本 vẫn là phẫu thuật ghép gan.
(3)Phì đại ống mật trong gan: Trẻ em sống sót lâu dài có thể xuất hiện phì đại túi ở ống mật trong gan, biểu hiện lâm sàng là sốt, vàng da, phân trắng, có thể chẩn đoán bằng siêu âm. Túi囊 đơn lẻ có thể được điều trị bằng chọc hút囊肿 qua da và đặt ống dẫn lưu hoặc phẫu thuật nối túi囊肿 với ruột non trong gan, phì đại đa囊 cần phải thực hiện phẫu thuật ghép gan.
II. Dự đoán
phẫu thuật Kasai1989năm báo cáo, nếu trong vòng6trong vòng 0 ngày sau khi phẫu thuật đúng cách thì hiệu quả hậu phẫu rất tốt,10% năm sống sót lớn hơn7%. Nhưng báo cáo của nhóm ngoại khoa của Hội Nhi khoa Hoa Kỳ lại chỉ25%, trong các báo cáo trường hợp lớn của Pháp thì chỉ24%. Một nhóm nghiên cứu gần đây của Okzaki ở Nhật Bản báo cáo rằng163trường hợp,10% năm sống sót chỉ13%, thêm vào đó tỷ lệ sống sót của các trường hợp thực hiện ghép gan có thể đạt29%. Gần đây, do sự tiến bộ của kỹ thuật ghép gan và quản lý hậu phẫu,1năm dưới có thể nhận được70%~8Tỷ lệ sống sót là 0%, vì vậy ghép gan đã trở thành phương pháp điều trị hiệu quả cho tắc nghẽn đường mật. Một số nhà nghiên cứu đề xuất ghép gan là phương pháp điều trị首选 cho tắc nghẽn đường mật, nhưng một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng ghép gan nên là lựa chọn sau khi phẫu thuật Kasai thất bại. Hiện tại, các tiêu chuẩn cho ghép gan trong trường hợp tắc nghẽn đường mật vẫn chưa đủ, cần nghiên cứu thêm. Inomata kết luận kinh nghiệm từ phẫu thuật Kasai trước và sau ghép gan trong điều trị tắc nghẽn đường mật và đề xuất một chiến lược điều trị tắc nghẽn đường mật: Phẫu thuật Kasai nên là phương pháp điều trị首选, nếu thất bại mới thực hiện phẫu thuật ghép gan; đối với trẻ em bị chẩn đoán ở giai đoạn muộn và đã có xơ gan thì nên xem xét trước tiên phẫu thuật ghép gan.