Tắc ống ruột là đường ống bệnh lý giữa ruột với ruột, ruột với các cơ quan khác hoặc với bên ngoài cơ thể, gây ra sự chảy ra của nội dung ruột ra khỏi ruột, gây nhiễm trùng, mất dịch体, suy dinh dưỡng và rối loạn chức năng cơ quan. Tắc ống ruột có thể chia thành hai loại: nội tắc và ngoại tắc. Khi nội dung ruột không chảy ra khỏi thành bụng, chẳng hạn như tắc ống ruột giữa ruột non, tắc ống ruột ruột non - ruột kết, tắc ống ruột ruột non - túi mật, tắc ống ruột ruột non - bàng quang. Khi ruột thông với bên ngoài cơ thể thì gọi là tắc ống ruột ngoài. Trên lâm sàng, dựa trên vị trí của vết tắc, lượng dịch ruột chảy ra qua vết tắc, số lượng vết tắc ruột, ruột có liên tục không và tính chất của bệnh lý gây tắc ống ruột, tắc ống ruột được chia thành tắc cao và tắc thấp, tắc nhiều và tắc ít, tắc đơn và tắc đa, tắc đầu và tắc bên, tắc lành tính và tắc ác tính. Khi có lỗ thông bất thường trên thành, gây ra sự rò rỉ nội dung ruột ra khỏi cơ thể, gọi là tắc ống ruột ngoài.
Nguyên nhân phổ biến gây tắc ống ruột bao gồm phẫu thuật, chấn thương, nhiễm trùng ổ bụng, ung thư ác tính, tổn thương do bức xạ, hóa trị và các bệnh viêm ruột và bệnh nhiễm trùng đường ruột. Trên lâm sàng, tắc ống ruột ngoài chủ yếu xảy ra sau phẫu thuật bụng, là một biến chứng nghiêm trọng xảy ra sau phẫu thuật, nguyên nhân chính là nhiễm trùng ổ bụng sau phẫu thuật, sự rách vết khâu nối và lưu lượng máu không tốt của ruột dẫn đến tắc ống ruột. Viêm ruột non, viêm phổi, viêm túi ruột, ung thư ác tính và nhiễm trùng vết thương do chấn thương, viêm ổ bụng và u phình cũng có thể trực tiếp phá vỡ thành ruột gây tắc ống ruột. Một số là biến chứng của bệnh viêm ruột, chẳng hạn như tắc ống ruột trong hoặc ngoài do bệnh Crohn gây ra. Theo phân tích tài liệu lâm sàng, tắc ống ruột thường gặp nhất là tắc ống ruột phát sinh sau u phình, nhiễm trùng và tắc ống ruột sau phẫu thuật; tắc ống ruột trong thường gặp ở ung thư ác tính; liệu pháp xạ trị và hóa trị cũng có thể gây tắc ống ruột, nhưng không phổ biến.