1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh này do suy thận mất kali do thiếu kali mãn tính gây ra, nguyên nhân chính gây ra thiếu kali bao gồm: không hấp thu đủ kali; mất kali quá nhiều (mất kali qua đường tiêu hóa và nước tiểu); sử dụng các thuốc lợi tiểu và hormone corticosteroid; bệnh thận mãn tính như bệnh toan axit thận tubular, hội chứng Bartter, hội chứng Liddle, u renin, hội chứng Cushing và bệnh thiếu men hydroxylase. Các triệu chứng giảm kali huyết thường gặp bao gồm:
1、thiếu kali máu không phải do thận lượng kali thải ra từ thận không tăng, do nhiều nguyên nhân khác nhau gây tăng hấp thu kali của tế bào cũng là một trong những nguyên nhân phổ biến gây thiếu kali máu. Thiếu kali máu do tăng hấp thu kali của tế bào gây ra thường là tạm thời, trong nhiều trường hợp không cần điều trị đặc biệt. Bệnh liệt cơ周期 do thiếu kali là một bệnh di truyền thường染色体显性 hiếm gặp, bệnh nhân có thể xảy ra liệt cơ thiếu kali một cách đột ngột, kali máu thường thấp hơn3mmol/L. Nguyên nhân gây bệnh này vẫn chưa完全 rõ ràng, acetazolamide có thể cải thiện hiệu quả các triệu chứng yếu cơ. Một số bệnh nhân suy giáp cường năng cũng có thể xuất hiện các biểu hiện liệt cơ周期, kali máu có thể giảm tạm thời. Nhưng nguyên nhân có thể không hoàn toàn giống nhau, acetazolamide thường không có hiệu quả, mà β-thuốc ức chế có thể cải thiện rõ ràng các triệu chứng yếu cơ. Ngoài ra, thiếu kali do không đủ hấp thu kali, hoặc do tiêu chảy cấp hoặc mạn tính gây mất kali qua ruột cũng là nguyên nhân chính gây thiếu kali máu không phải do thận.
2、thiếu kali máu nguyên phát do thận các nguyên nhân khác nhau gây ra sự tăng thải kali qua nước tiểu là nguyên nhân chính gây thiếu kali máu, được gọi là thiếu kali máu nguyên phát do thận. Bệnh nhân ngoài việc có biểu hiện thiếu kali máu, thường cùng lúc có nhiễm toan axit chuyển hóa hoặc nhiễm toan axit chuyển hóa. Khi thiếu kali máu kèm theo nhiễm toan axit chuyển hóa, huyết áp hầu hết bình thường, còn bệnh nhân thiếu kali máu kèm theo nhiễm toan axit chuyển hóa thì hầu hết có tăng huyết áp.
)1)thiếu kali máu kèm theo nhiễm toan axit: Do thiếu kali máu có thể điều chỉnh tăng nồng độ bicarbonate trong máu, vì vậy hầu hết bệnh nhân có xu hướng nhiễm toan axit chuyển hóa; ngược lại, nếu bệnh nhân thiếu kali máu kèm theo nhiễm toan axit chuyển hóa thì rất có lợi cho chẩn đoán. Bởi vì thiếu kali máu kèm theo nhiễm toan axit chỉ thấy ở nhiễm toan axit thận nhỏ, bao gồm nhiễm toan axit thận近曲小管 và thận远曲小管; cũng như nhiễm toan axit acid kето của bệnh đái tháo đường. Nhiễm toan axit acid kето do tác dụng lợi tiểu渗透 tính của glucose cao và lượng acid kето mang điện âm lớn thải ra qua nước tiểu thúc đẩy thải kali qua nước tiểu, và có sự giảm rõ ràng lượng kali toàn thân. Nhưng ở giai đoạn sớm của nhiễm toan axit, do sự phân phối lại kali trong và ngoài tế bào, thiếu kali máu có thể không rõ ràng. Nếu không bổ sung kali khi điều trị bằng insulin và thuốc kiềm, có thể gây thiếu kali máu nghiêm trọng thậm chí tử vong.
)2)thiếu kali máu mà máu pH bình thường hoặc kèm theo nhiễm toan axit chuyển hóa:
① Primary hyperaldosteronism, mức độ aldosterone trong máu tăng cao, làm cho natri ion vào thận远曲小管明显增加, do natri-hóa học natri qua nước tiểu tăng. Bệnh nhân ngoài việc có mức độ aldosterone trong máu tăng cao, thiếu kali máu, còn có biểu hiện tăng huyết áp và nhiễm toan axit chuyển hóa, trong khi hoạt tính renin trong máu hầu hết giảm. Do thiếu kali máu có thể phản hồi ức chế sự tiết aldosterone của lớp vỏ thượng thận, vì vậy mức độ aldosterone trong máu của bệnh nhân thiếu kali máu nghiêm trọng không tăng lên tương ứng. Người bình thường hoặc bệnh nhân tăng huyết áp do nguyên nhân khác sau khi truyền dịch sinh lý hoặc hydrocortisone, mức độ aldosterone trong máu nên thấp hơn110.96nmol/L(4ng/dl),mà mức độ aldosterone trong máu không bị ức chế lại giúp ích cho việc chẩn đoán bệnh này. Bướu肾上腺 do mức độ aldosterone trong máu cao, biểu hiện thiếu kali máu cũng rõ ràng, cần phẫu thuật điều trị. Còn sự tăng trưởng肾上腺 có thể thử sử dụng spironolactone (Anthelcide) để điều trị chống aldosterone, nhiều bệnh nhân thiếu kali máu và tăng huyết áp có thể được cải thiện. Một số bệnh nhân tăng aldosterone trong nước tiểu18-羟基和18-氧基可的松浓度增高,地塞米松抑制试验阳性,这是一种罕见的常染色体显性遗传性疾病。这些患者服用噻嗪类利尿剂可造成极为严重的低钾血症,而服用小剂量地塞米松(0.75mg)则能有效纠正低血钾和降低血醛固酮。
②继发性醛固酮增多症:本病多伴发于肾血管性疾病,如肾动脉狭窄、肾血管炎等,临床上也可表现为低钾性碱中毒和高血压。但需注意的是并非所有的继发性醛固酮增多症都有低血钾的表现。肾血管外皮细胞瘤(Robertson-Kihara综合症)是一种罕见的肾小球旁装置肿瘤,因其可分泌肾素而继发引起醛固酮增多,临床上也表现为低血钾和高血压,患侧肾静脉肾素活性明显增高。某些肾外恶性肿瘤也可能继发醛固酮增多,但血清中主要以非活性的肾素水平增高为主。
③先天性盐皮质激素增多综合症:由于先天性11β-羟基固醇脱氢酶(11β-OHSD活性低下,导致肾脏内皮质醇转化为无活性的羟基皮质醇受阻,使大量皮质醇与盐皮质素受体结合并激活,发挥类似盐皮质激素的作用,临床上出现醛固酮增多的表现。甘草、棉籽酚以及甘珀酸钠等药物也有抑制11β-OHSD的作用,以至于引起盐皮质激素增多的临床表现。文献中曾有因摄入含甘草的食品或药物而造成盐皮质激素增多症的报道。
④Liddle综合症:是一种家族性疾病。临床上主要表现为低血钾、高血压和碱中毒等。本病的病理生理特点是远端肾小管钠的重吸收显著增加,导致容量扩张并进一步抑制肾素和醛固酮的产生。因此,本病的醛固酮水平通常较低。钠潴留是导致高血压的原因,同时钠重吸收增加导致钾排出增加,引起低血钾和碱中毒。患者红细胞膜钠离子流出障碍也是本病的特征之一。保钾利尿剂如氨苯蝶啶和阿米洛利(Amiloride)可用于本病的治疗,相反,螺内酯(安体舒通)对本病无效,不宜使用。
⑤库欣综合症:约30%的库欣综合症患者可能发生低血钾,尤其是继发于异位肾上腺皮质激素分泌的库欣综合症患者,低血钾的发生率更高。由于糖皮质激素与盐皮质激素受体结合后也可以产生类似盐皮质激素的作用,使肾脏排钾增加。最近有人在动物实验中发现糖皮质激素能增加-肾小球滤过率增加导致流经肾小管的液体量增多,这是导致尿钾排出增加的主要原因。
⑥低氯血症综合症:低氯血症也是导致低血钾和代谢性碱中毒的原因之一,患者没有高血压。低氯血症多发生在频繁呕吐或因胃肠减压导致氯离子大量丢失的情况下。此外,长期服用大剂量的噻嗪类或襻利尿剂也是导致低氯血症的重要原因。
⑦ Hội chứng Bartter: Hội chứng này là một bệnh lý di truyền hiếm gặp,}80% của bệnh nhân trong15Dưới tuổi này bị bệnh, hầu hết các bệnh nhân đều có dấu hiệu chậm phát triển.50 tuổi trở lên rất hiếm gặp. Tính chất bệnh lý của bệnh này là sự增生 của thiết bị ballart, bệnh nhân có thể xuất hiện tăng renin, tăng aldosterone血症, vì vậy hạ kali máu cũng là triệu chứng nổi bật trong lâm sàng. Do sự sản xuất prostaglandin và kinin của bệnh nhân cũng tăng lên rõ ràng, dẫn đến sự kháng lại tác dụng của angiotensin II và norepinephrine, vì vậy bệnh nhân không có tăng huyết áp. Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hạ kali máu của bệnh này không hoàn toàn do tăng aldosterone, vì hạn chế hấp thu muối natri, uống spironolactone (spironolactone), aminoglutethimide hoặc cắt bỏ肾上腺 thường có thể giảm hiệu quả bài tiết kali qua nước tiểu ở bệnh nhân tăng aldosterone, nhưng các phương pháp này lại không thể纠正 hạ kali máu của hội chứng Bartter. Ngược lại, các chất ức chế prostaglandin như indomethacin (nghiên cứu đau) có thể纠正 tất cả các rối loạn chuyển hóa và bất thường của bệnh này, gợi ý rằng sự sản xuất prostaglandin quá nhiều có thể là nguyên nhân chính gây bệnh này. Điều trị bệnh này ngoài việc sử dụng chất ức chế prostaglandin, còn cần phải bổ sung kali kịp thời, đối với bệnh nhân bài tiết kali qua nước tiểu nhiều则需要 sử dụng thuốc lợi tiểu giữ kali, trong đó amiloride (amiloride) có hiệu quả nhất.
⑧ Thiếu magie: Thiếu magie cũng có thể dẫn đến việc bài tiết kali qua nước tiểu tăng lên gây hạ kali máu, nguyên nhân vẫn chưa rõ ràng. Một số bệnh nhân sau khi bổ sung đủ lượng magie có thể giảm bài tiết kali qua nước tiểu. Các triệu chứng lâm sàng của thiếu magie tương tự như thiếu kali máu, chủ yếu là các triệu chứng tăng phản xạ thần kinh cơ, dễ bị kích động, sợ ánh sáng, rối loạn tâm thần, và các triệu chứng tăng phản xạ thần kinh cơ, trong trường hợp nghiêm trọng có thể xuất hiện hôn mê, co giật.
⑨ Thuốc lợi tiểu: Các loại thuốc lợi tiểu thiazide, axit acetazolamide, thuốc lợi tiểu mercury, và các loại thuốc lợi tiểu furosemide và ethacrynic acid�, và các loại thuốc lợi tiểu khác đều có thể làm tăng bài tiết kali qua nước tiểu dẫn đến hạ kali máu. Nguyên nhân chính là vì các loại thuốc này ức chế sự tái hấp thu natri và nước ở ống thận, dẫn đến sự tăng lên rõ rệt của natri và nước ở đoạn thận cuộn远曲小管, Na-Tăng cường trao đổi kali dẫn đến việc bài tiết kali qua nước tiểu tăng lên. Ngoài ra, các thuốc lợi tiểu này (trừ axit acetazolamide) còn có thể gây độc tính碱性代谢, làm tăng thêm việc bài tiết kali qua nước tiểu. Ngoài thuốc lợi tiểu, còn có rất nhiều loại thuốc khác cũng gây hạ kali máu, và cơ chế gây hạ kali máu cũng không hoàn toàn giống nhau, bảng dưới đây liệt kê một số loại thuốc thường gặp dễ gây hạ kali máu và nguyên lý gây hạ kali máu của chúng.
Phần 2: Cơ chế gây bệnh
Hiểu biết về cơ chế gây bệnh của bệnh suy thận do hạ kali máu có nguồn gốc từ nghiên cứu về hạ kali máu thí nghiệm ở chuột. Nguyên nhân chính gây tổn thương thận ở bệnh nhân hạ kali máu có thể là sự bất thường trong sự tạo thành amin khi hạ kali máu. Kết quả của các thí nghiệm cho thấy, hạ kali máu kích thích sự tạo thành amin, cơ chế là acid hóa tế bào khi hạ kali máu, kết quả là gây ra sự kích hoạt của con đường bổ thể, sau đó là sự xâm nhập của tế bào miễn dịch vào mô liên kết, dẫn đến tổn thương tiến triển của ống thận và mô liên kết. Ở chuột bị hạ kali máu, bổ sung bicarbonate natri để ức chế sự tạo thành amin, kết quả là tổn thương ống thận và mô liên kết giảm bớt.
Các thay đổi về cấu trúc và chức năng của ống thận kèm theo mất kali thể hiện tính có thể ngược lại. Các bệnh lý này không nhất thiết phải phát triển thành bệnh thận ống gian mạn tính và gây suy thận mạn tính, nhưng liên quan đến thời gian bệnh tình của giảm kali máu. Có báo cáo về một loại bệnh lý ống gian gia đình do giảm kali máu, biểu hiện suy thận tiến triển. Kết quả nghiên cứu ở chuột bị giảm kali máu thí nghiệm, sau khi giảm kali máu kéo dài hàng tháng có thể xuất hiện sự tổn thương tổ chức gian không thể ngược lại, nhưng tổn thương ống gian niệu quản ở chuột bị giảm kali máu nặng hơn so với con người, đồng thời các tổn thương này có thể là nguyên nhân gây ra sự dễ bị nhiễm trùng thận niệu quản mạn tính ở chuột bị giảm kali máu.